Phục hồi chức năng sớm là gì? Các công bố khoa học về Phục hồi chức năng sớm

Phục hồi chức năng sớm là quá trình phục hồi và tái lập các chức năng của cơ thể sau khi gặp chấn thương, bệnh tật hoặc phẫu thuật. Mục tiêu của phục hồi chức n...

Phục hồi chức năng sớm là quá trình phục hồi và tái lập các chức năng của cơ thể sau khi gặp chấn thương, bệnh tật hoặc phẫu thuật. Mục tiêu của phục hồi chức năng sớm là giúp cá nhân trở lại mức độ chức năng cao nhất có thể, tăng cường sự phục hồi và giảm các hậu quả tiêu cực của sự suy giảm chức năng. Phục hồi chức năng sớm thường bao gồm việc đánh giá và xác định mức độ suy giảm chức năng, thiết lập kế hoạch điều trị, áp dụng các phương pháp và kỹ thuật phục hồi chức năng như phục hồi vật lý, vận động, tâm lý, nói chuyện, và hỗ trợ thể chất và tinh thần từ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe.
Phục hồi chức năng sớm là một phương pháp điều trị đa khía cạnh, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống và đưa người dùng trở lại hoạt động một cách hiệu quả sau khi gặp chấn thương, bệnh tật hoặc phẫu thuật. Quá trình phục hồi chức năng sớm thường được tiến hành dưới sự giám sát của nhóm chuyên gia điều trị, bao gồm bác sĩ chuyên khoa, nhà trị liệu vật lý, nhà tâm lý học và nhân viên y tế khác.

Tùy thuộc vào trạng thái sức khỏe và nhu cầu của từng cá nhân, quá trình phục hồi chức năng sớm bao gồm các phương pháp và kỹ thuật sau:

1. Đánh giá và xác định mức độ suy giảm chức năng: Quá trình phục hồi bắt đầu bằng việc đánh giá tổng thể về tình trạng sức khỏe và chức năng của người dùng. Nhà điều trị sẽ tiến hành kiểm tra thể lực, tinh thần và các chức năng cụ thể như khả năng di chuyển, cử động, lực lượng, sự thích ứng và tư duy.

2. Thiết lập kế hoạch điều trị: Dựa trên kết quả đánh giá, nhóm điều trị sẽ lập kế hoạch điều trị cá nhân hóa cho người dùng. Kế hoạch này có thể bao gồm các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, cũng như các phương pháp và kỹ thuật cụ thể để đạt được các mục tiêu đó.

3. Phục hồi vật lý: Đây là một phương pháp quan trọng trong quá trình phục hồi chức năng sớm, bao gồm các bài tập thể lực, tập thể dục và công việc nhóm để cải thiện sự linh hoạt, sức mạnh và khả năng di chuyển của cơ thể. Nhà trị liệu vật lý sẽ hướng dẫn và giúp người dùng thực hiện các bài tập phù hợp và an toàn.

4. Phục hồi vận động và chức năng: Nhóm điều trị cũng tập trung vào việc phục hồi các kỹ năng và khả năng chuyên môn cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và công việc. Điều này có thể bao gồm các hoạt động như đi lại, tự chăm sóc bản thân, luyện tập cử động, đàm thoại, hoặc các khía cạnh tư duy khác.

5. Hỗ trợ thể chất và tinh thần: Phục hồi chức năng sớm cũng được thực hiện thông qua việc cung cấp hỗ trợ và chăm sóc thể chất và tinh thần. Điều này có thể bao gồm các liệu pháp hỗ trợ như đọc sách, nghe nhạc, nghệ thuật điều trị hoặc công việc tâm lý để giảm căng thẳng và khuyến khích sự hồi phục.

Phục hồi chức năng sớm yêu cầu sự chăm chỉ và kiên nhẫn từ người dùng, đồng thời cũng đòi hỏi sự hỗ trợ và giám sát chuyên nghiệp từ nhóm điều trị. Tuy nhiên, quá trình này thường mang lại những lợi ích đáng kể trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống và tái lập chức năng do chấn thương hoặc bệnh tật.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phục hồi chức năng sớm":

Giảm đau sau phẫu thuật và phục hồi sớm sau thay toàn bộ khớp gối: So sánh giữa truyền tĩnh mạch low-dose ketamine liên tục và nefopam Dịch bởi AI
European Journal of Pain - Tập 13 Số 6 - Trang 613-619 - 2009
Tóm tắt

Một nghiên cứu tiền cứu, mù đôi đã so sánh tác động của nefopam và ketamine trong việc kiểm soát đau và phục hồi sau thay toàn bộ khớp gối.

Bảy mươi lăm bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để nhận nefopam hoặc ketamine với liều bolus 0.2mgkg−1, sau đó là truyền liên tục 120μgkg−1h−1 cho đến khi kết thúc phẫu thuật, và 60μgkg−1h−1 cho đến ngày hậu phẫu thứ hai, hoặc một thể tích tương đương dung dịch nước muối sinh lý làm giả dược. Điểm đau được đo bằng thang đo analog thị giác lúc nghỉ và vận động, và lượng tiêu thụ morphine quan sát qua 48 giờ. Chúng tôi đo độ gập tối đa của đầu gối vào ngày hậu phẫu thứ ba, và thời gian để đạt độ gập 90°.

Ketamine và nefopam làm giảm tiêu thụ morphine (p<0.0001). Điểm đau, thấp hơn lúc nghỉ và vận động trong nhóm ketamine so với hai nhóm khác trong tất cả các lần đo. Điểm đau thấp hơn ở bệnh nhân nhận nefopam so với giả dược, khi đến phòng hồi sức và 2h sau. Ketamine cải thiện độ gập đầu gối vào ngày hậu phẫu thứ ba (59° [33–63] so với 50° [47–55] và 50° [44–55] ở các nhóm ketamine, giả dược và nefopam, tương ứng, p<0.0002) và giảm thời gian đầu gối gập đến 90° (9.1±4.2 so với 12.3±4.0 ngày, ở các nhóm ketamine và giả dược, tương ứng, p=0.01).

Ketamine tạo ra hiệu ứng giảm spari opioid, giảm cường độ đau, và cải thiện vận động sau thay toàn bộ khớp gối. Nefopam đạt kết quả ít đáng kể hơn trong hoàn cảnh đó.

#nefopam #ketamine #giảm đau sau phẫu thuật #thay thế hoàn toàn khớp gối #phục hồi chức năng #sử dụng opioid tiết kiệm #thang đo đau #biện pháp kiểm soát đau #phục hồi sau phẫu thuật
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG SỚM BỆNH NHÂN SAU MỔ THAY KHỚP HÁNG BÁN PHẦN DO CHẤN THƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Sự gia tăng tuổi thọ trong vài thập kỷ qua dẫn đến tăng đáng kể các ca gãy cổ xương đùi và liên mấu chuyển xương đùi ở người cao tuổi. Phẫu thuật thay khớp háng bán phần cho bệnh nhân cao tuổi trở nên phổ biến hiện nay. Phục hồi chức năng sớm đóng vai trò hết sức quan trọng giúp bệnh nhân giảm phù nề, giảm đau, tránh được các biến chứng, sớm lấy lại tầm vận động và chức năng của chi thể, giúp bệnh nhân đạt được độc lập trong cuộc sống hàng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống. Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích sự ảnh hưởng của phục hồi chức năng sớm đối với đau, khả năng vận động, đi lại và biến chứng của bệnh nhân cao tuổi sau thay khớp háng bán phần trong giai đoạn hồi phục tại bệnh viện và sau 1 tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 35 bệnh nhân trên 70 tuổi thay khớp háng bán phần một bên do chấn thương tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức trong năm 2021, được chia thành hai nhóm can thiệp và nhóm đối chứng. Đây là một nghiên cứu tiến cứu, can thiêp có đối chứng. Kết quả: Nhóm tập phục hồi chức năng sớm cải thiện hơn nhóm chứng về chức năng khớp háng và tổng điểm Harris với p< 0.05 tại thời điểm sau mổ 1 tuần, tương đương nhóm chứng về mức độ đau, khả năng đi lại thời điểm 1 tuần. Tương đương với nhóm chứng về mức độ đau, khả năng đi lại, chức năng khớp háng và điểm Harris thời điểm 1 tháng sau mổ với p>0.05. Không có sự khác biệt về tỉ lệ mắc các biến chứng sau mổ. Kết luận: Tập phục hồi chức năng sớm cho bệnh nhân sau mổ thay khớp háng bán phần do chấn thương giúp bệnh nhân đạt chức năng khớp háng tốt, giảm các biến chứng sau mổ.
#thay khớp háng bán phần #người già #phục hồi chức năng sớm
KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG SỚM VỚI RỐI LOẠN NUỐT Ở NGƯỜI BỆNH NHỒI MÁU NÃO CẤP ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA THẦN KINH BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Đột quỵ não là một bệnh rất nghiêm trọng và thường để lại hậu quả nặng nề cho bản thân người bệnh, gia đình và toàn xã hội nếu không được chăm sóc và điều trị kịp thời. Đây là vấn đề thời sự của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Rối loạn nuốt sau đột quỵ xảy ra ở 23-65% người bệnh, trong số này, có 37% phát triển thành viêm phổi hít và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Ngày nay, với sự tiến bộ của y học, Phục hồi chức năng giai đoạn cấp góp phần phục hồi tiên lượng cho người bệnh Trong đột quỵ não thì liệt và rối loạn nuốt là dấu hiệu thường gặp và hay đi kèm với nhau. Nếu không được vận động sớm người bệnh dễ mắc teo cơ, cứng khớp, sặc, viêm phổi và suy dinh dưỡng. Xuất phát từ vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này. Mục Tiêu: Đánh giá kết quả phục hồi chức năng sớm với rối loạn nuốt ở người bệnh nhồi máu não cấp điều trị tại Khoa Thần Kinh Bệnh Viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp giả thực nghiệm không có nhóm chứng (quasi-experiment) trên 96 người bệnh đột quỵ não cấp (theo tiêu chuẩn chẩn đoán của WHO) có rối loạn nuốt được điều trị tại TT Thần Kinh BV Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2021. Thang điểm GUSS (The Gugging Swallowing Screen) được dùng để đánh giá rối loạn nuốt cho người bệnh. Kết quả và bàn luận: Phần lớn người bệnh ở độ tuổi từ 61-70 tuổi (33 người, chiếm 34,4%). Sau khi được can thiệp phục hồi chức năng nuốt tất cả 96 người bệnh đều có sự cải thiện về khả năng nuốt tốt hơn so với trước can thiệp (Điểm GUSS tăng từ 11,09 ± 3,37 lên 14.31 ± 1,87, p <0,0001). Kết luận: Tiến hành áp dụng các bài tập nuốt trên người bệnh đột quỵ não cấp có rối loạn nuốt sớm bước đầu đem lại kết quả tốt trong phục hồi khả năng nuốt cho người bệnh.
#Đột quỵ #tăng huyết áp #rối loạn nuốt #bài tập nuốt
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG SỚM TRÊN BỆNH NHÂN SAU MỔ THAY KHỚP GỐI TOÀN BỘ DO THOÁI HÓA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Thoái hóa khớp gối là nguyên nhân thứ 2 gây tàn tật sau bệnh tim mạch ở người có tuổi, tuy không ảnh hưởng đến tính mạng nhưng hệ quả của bệnh là đau khớp và tàn tật, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Thay khớp gối toàn bộ cho bệnh nhân thoái hóa khớp gối trở nên phổ biến hiện nay. Phục hồi chức năng sớm sau mổ đóng vai trò hết sức quan trọng giúp giảm phù nề, cải thiện tầm vận động khớp gối, tăng sức mạnh cơ và chức năng chi dưới, tránh các thương tật thứ cấp, giúp bệnh nhân đạt được độc lập trong cuộc sống hàng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động sớm trên bệnh nhân sau mổ thay khớp gối toàn bộ do thoái hóa khi ra viện và sau mổ 1 tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 66 bệnh nhân từ 18-70 tuổi thay khớp gối toàn bộ một bên do thoái hóa tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức năm 2021-2022. Đây là nghiên cứu tiến cứu, mô tả, không đối chứng. Kết quả: so với trước tập, khi ra viện và sau 1 tháng, điểm VAS trung bình từ 5.7 giảm xuống 3.5 và 2.4. Mức độ đau chủ yếu là mức nhẹ hoặc vừa khi ra viện và sau 1 tháng. Cải thiện tầm vận động tốt khi ra viện và sau 1 tháng cả về tầm gấp và duỗi khớp gối. Cải thiện điểm chức năng LEFS, KSS so với trước tập có ý nghĩa thống kê. Bệnh nhân có thể đi được với 1 nạng hoặc không sử dụng dụng cụ trợ giúp khi đi lại, bệnh nhân có thể đi được quãng đường >250m sau 1 tháng. Kết luận: Tập phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật thay khớp gối toàn bộ do thoái hóa giúp bệnh nhân cải thiện mức độ đau, tầm vận động khớp và chức năng khớp gối.
#thay khớp gối toàn bộ #phục hồi chức năng sớm
TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 1 - 2021
Suy giảm nhận thức do chấn thương sọ não có thể ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực bao gồm chú ý, ngôn ngữ, trí nhớ, nhận thức tri giác và chức năng điều hành. Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả phục hồi chức năng nhận thức trên người bệnh chấn thương sọ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tiến cứu, so sánh kết quả trước và sau can thiệp trên 33 bệnh nhân bệnh nhân chấn thương sọ não trên 18 tuổi vào điều trị nội trú tại bệnh viện Phục hồi chức năng Hà Nội. Kết quả và kết luận: Bệnh nhân chấn thương sọ não chủ yếu là nam giới chiếm tỷ lệ 78,8%, nữ giới chiếm 21,2%, tỷ lệ nam/nữ là 3.71/1.  Độ tuổi và giới tính không ảnh hưởng đến phục hồi chức năng nhận thức của bệnh nhân chấn thương sọ não (p> 0,05). Những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dưới 6 tháng và trên 6 tháng không ảnh hưởng đến PHCN nhận thức của bệnh nhân chấn thương sọ não (p> 0,05).
#Yếu tố liên quan #Phục hồi chức năng nhận thức #Chấn thương sọ não
Nghiên cứu so sánh giữa hai phương pháp phục hồi chức năng chủ động và thụ động sớm sau khi sửa chữa gân gấp hai sợi: liệu sửa chữa gân gấp hai sợi có chịu đựng được phục hồi chủ động sớm? Dịch bởi AI
Egyptian Rheumatology and Rehabilitation - Tập 45 - Trang 125-132 - 2018
Việc khôi phục đầy đủ phạm vi chuyển động của các ngón tay cũng như ngăn ngừa co rút khớp sau khi sửa gân gấp là một thách thức. Hiện tại, thiếu bằng chứng vững chắc về giao thức phục hồi chức năng phù hợp nhất sau khi sửa chữa gân gấp. Điều này là do số lượng hạn chế các nghiên cứu so sánh các giao thức phục hồi chức năng khác nhau. Hơn nữa, các nghiên cứu hiện tại ủng hộ một kỹ thuật cụ thể mà không có nhóm đối chứng so sánh. Ngay cả những nghiên cứu có kiểm soát ít ỏi cũng khác nhau về phương pháp sửa chữa, phục hồi chức năng và đánh giá kết quả. Theo kiến thức của chúng tôi, thử nghiệm có kiểm soát ngẫu nhiên duy nhất so sánh phục hồi chủ động sớm với phục hồi thụ động sớm là nghiên cứu của Trumble và các đồng nghiệp vào năm 2010, được thực hiện với gân được sửa chữa bằng bốn sợi. Các tác giả đã kết luận rằng chương trình phục hồi chủ động có phạm vi chuyển động tốt hơn với ít co rút gấp hơn và điểm số hài lòng cao hơn so với những người được điều trị bằng giao thức phục hồi thụ động. Kết luận này đã thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu tác động của việc vận động chủ động sớm so với vận động thụ động sớm sau khi sửa chữa bằng hai sợi. Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu trong 12 tuần so sánh giao thức vận động chủ động sớm 'đặt và giữ' với vận động thụ động sớm 'Kleinert đã sửa đổi' sau khi sửa chữa Kessler hai sợi đã được chuẩn hóa ở các vùng tay khác nhau. Chúng tôi kết luận rằng vận động chủ động sớm có chuyển động gân và hoạt động tốt hơn ngay cả với sửa chữa hai sợi vì chuyển động chủ động sẽ giảm thiểu sự hình thành dính, với sự khác biệt đáng kể so với nhóm thụ động. Hơn nữa, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ rách gân và có sự khác biệt đáng kể về sự kết hợp giữa độ trễ gân và dị tật gấp do kiểm soát vận động giữa hai nhóm.
Tái tạo Roux-en-Y tại đường cong lớn trong phân ly biliopancreatic: Tác động đến phục hồi chức năng sau phẫu thuật sớm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 21 - Trang 1188-1193 - 2011
Việc chậm rãi làm rỗng dạ dày sau phẫu thuật cắt dạ dày xa và tái tạo đường tiêu hóa với một anastomosis dạ dày-ruột có thể ảnh hưởng đáng kể đến quá trình phẫu thuật sau sớm và muộn cũng như thời gian nằm viện. Mục đích của nghiên cứu này là để so sánh tác động đến phục hồi chức năng sau phẫu thuật của hai phương pháp tái tạo Roux-en-Y khác nhau: ở đường cong lớn dạ dày và ở đường khâu dạ dày bị cắt trong phương pháp phân ly biliopancreatic Scopinaro. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu so sánh; 80 bệnh nhân đã được ghi danh và chia thành hai nhóm: nhóm A (RY-GC) và nhóm B (RY-SL) với 40 bệnh nhân ở mỗi nhóm. Chúng tôi đã so sánh phục hồi chức năng sau phẫu thuật sớm cho cả hai nhóm bằng cách đo bốn thông số: tình trạng tắc nghẽn dạ dày được chỉ thị bằng thể tích dịch dạ dày thu thập trong 24 giờ, ngày gỡ bỏ ống thông mũi-dạ dày, ngày bắt đầu ăn uống đường miệng và ngày xuất viện. Có sự giảm đáng kể (p < 0,001) thể tích dịch dạ dày theo hướng có lợi cho nhóm RY-GC bắt đầu từ ngày phẫu thuật đầu tiên, dẫn đến gỡ bỏ ống thông mũi-dạ dày sớm hơn với việc bắt đầu ăn uống đường miệng sớm hơn so với nhóm RY-SL, mà không có triệu chứng tắc nghẽn cần phải ngừng dinh dưỡng; trong khi ba bệnh nhân trong nhóm RY-SL gặp phải tình trạng buồn nôn và nôn kéo dài và cần phải ngừng dinh dưỡng trong vài ngày. Có sự giảm đáng kể (p < 0,001) thời gian nằm viện cho nhóm RY-GC. Tái tạo Roux-en-Y ở đường cong lớn đảm bảo phục hồi chức năng nhanh chóng với việc xuất viện sớm. Việc sử dụng thiết bị bắn ghim đã giúp phương pháp này dễ dàng và an toàn hơn, không có biến chứng nào xảy ra với các anastomoses cơ học.
Mối quan hệ giữa Stereotype Di chuyển và Vị trí Tâm điểm trong Giai đoạn Phục hồi Sớm sau Đột quỵ Ischemic Nhẹ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 50 - Trang 149-155 - 2019
Mục tiêu. Nghiên cứu các đặc điểm của stereotype di chuyển trong giai đoạn phục hồi sớm của đột quỵ ischemic ở lưu vực động mạch cảnh trong và hệ thống vertebrobasilar. Vật liệu và phương pháp. Mười một bệnh nhân (năm nam, sáu nữ, độ tuổi trung bình 57,2 ± 5,2 năm) đã được nghiên cứu 4–6 tuần sau đột quỵ ischemic. Điểm số ban đầu trên thang NIHSS trung bình là 6,2 ± 0,8, với điểm số 3,9 ± 0,7/3,7 ± 0,8 cho yếu lực tay/chân và 4,3 ± 0,6/4,0 ± 0,5 cho yếu lực chân. Tâm điểm nằm ở lưu vực động mạch cảnh trong ở bảy bệnh nhân và trong hệ thống vertebrobasilar ở bốn bệnh nhân. Các cuộc điều tra được thực hiện khi nhập viện và sau 2–2,5 tuần. Những thay đổi trên thang điểm FIM và thang đo co cứng Ashworth, bài kiểm tra khéo léo tay (bài kiểm tra chín lỗ đinh, NHPT), và bài kiểm tra Timed Up and Go (TUG) được đánh giá, cùng với những thay đổi trên thang cân bằng Berg và thang điểm chóng mặt 20 điểm, MMSE, và các bảng câu hỏi Beck và Spielberger. Phân tích video di chuyển được thực hiện bằng hệ thống Physiomed Smart (Physiomed, Đức) sử dụng giao thức Davis. Kết quả. Trên nền tảng các biện pháp phục hồi chức năng, tất cả bệnh nhân đều cho thấy sự giảm mức độ yếu lực, cải thiện trên các thang điểm FIM, Ashworth và Berg cũng như trên các bài kiểm tra NHPT và TUG. Bệnh nhân có tâm điểm trong hệ thống vertebrobasilar, trái ngược với những bệnh nhân có tâm điểm trong lưu vực động mạch cảnh trong, cho thấy sự giảm khả năng giữ thăng bằng được phát hiện trên thang điểm chóng mặt 20 điểm. Khi phân tích video, tất cả bệnh nhân đều cho thấy những thay đổi trong stereotype di chuyển dưới dạng rút ngắn chiều dài và tăng chiều rộng của kiểu đi, với sự giảm tốc độ và kéo dài chu kỳ bước; các thay đổi này rõ ràng hơn đối với tâm điểm ở hệ thống vertebrobasilar. Một đặc điểm phân biệt cho các tâm điểm nằm trong hệ thống vertebrobasilar là sự nghiêng phía trước của xương chậu, trong khi sự nghiêng bên của xương chậu được thấy ở các tâm điểm nằm trong lưu vực động mạch cảnh trong. Kết luận. Vị trí tâm điểm trong đột quỵ ischemic nhẹ có thể ảnh hưởng đến các đặc điểm phục hồi và stereotype di chuyển, và điều này cần được xem xét trong phục hồi chức năng cho những bệnh nhân này.
#đột quỵ ischemic #stereotype di chuyển #phục hồi chức năng #động mạch cảnh trong #hệ thống vertebrobasilar
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH, MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN, ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP TẬP VẬN ĐỘNG TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI THOÁI HOÁ KHỚP GỐI TẠI TRUNG TÂM Y TẾ U MINH, CÀ MAU NĂM 2022-2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 66 - Trang 261-268 - 2023
Đặt vấn đề: Thoái hóa khớp là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra tàn tật và làm tăng gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Mục tiêu nghiên cứu: 1). Xác định tỷ lệ thoái hoá khớp gối và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi. 2). Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bằng phương pháp tập vận động Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 325 người cao tuổi đến khám tại Trung tâm Y tế U Minh bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Kết quả: Tỷ lệ thoái hoá khớp gối ở người cao tuổi là 72,3% . Tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thoái hoá khớp gối với tiền sử chấn thương khớp gối, đối tượng lao động nặng, thời gian đau khớp gối trên 5 năm.sau khi tiến hành can thiệp vận động trị liệu trên 235 bệnh nhân sau 30 ngày điều trị điểm VAS giảm trung bình 2,07 điểm, điểm Lequesne nhóm can thiệp thấp hơn nhóm chứng trung bình 6,86 điểm, điểm WOMAC nhóm can thiệp thấp hơn nhóm chứng trung bình 27,33 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Phương pháp vận động phục hồi chức năng khớp gối có hiệu quả cải thiện mức độ đau VAS và cải thiện chức năng vận động sinh hoạt của bệnh nhân.
#Thoái hoá khớp gối #phục hồi chức năng #vận động trị liệu
KẾT QUẢ CAN THIỆP PHỤC HỒI CHỨC NĂNG SỚM VẸO CỔ DO U XƠ CƠ ỨC ĐÒN CHŨM Ở TRẺ DƯỚI BA THÁNG TUỔI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: vẹo cổ do cơ ức đòn chũm là nhóm thường gặp nhất trong vẹo cổ bẩm sinh do tật cơ. Điều trị sớm trước 1 tuổi, đặc biệt là dưới 3 tháng tuổi giúp khả năng hồi phục hoàn toàn cao hơn về chức năng vận động. Mục tiêu: đánh giá kết quả can thiệp phục hồi chức năng sớm vẹo cổ do u xơ cơ ức đòn chũm cho trẻ dưới 3 tháng tuổi tại bệnh viện Nhi Trung Ương. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu trên 65 trẻ dưới 3 tháng tuổi, mô tả cắt ngang, so sánh trước- sau điều trị và sau 1 tháng. Kết quả: hạn chế gập bên sau điều trị là 7.5 ± 2.3 độ, sau 1 tháng là 7.1 ± 2.7 độ, cải thiện có ý nghĩa thống kê p<0.05. Hạn chế xoay sau điều trị là 12.3 ± 3.1, sau 1 tháng là 10.8 ± 3.3, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê p<0.05. Điểm Cheng trung bình sau điều trị là 11.7 ± 2.4, sau 1 tháng là 10.7 ± 2.6, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê p<0.05. Phần lớn điểm Cheng ở mức độ tốt và khá. Kết luận: phục hồi chức năng sớm trước 3 tháng tuổi giúp cải thiện tốt chức năng cổ của trẻ bị vẹo cổ do cơ ức đòn chũm
#vẹo cổ do cơ #phục hồi chức năng sớm
Tổng số: 16   
  • 1
  • 2